Chương 4
Công thành cung vang
Ba vạn đại quân đông nghìn nghịt khí thế ngút trời đang xuất hiện ở bên ngoài thành, trên cái lá cờ trung quân cao ba trượng có thêu một chữ cái theo lối viết rồng bay phượng múa. Hán!
Hoàng đế đương thời của Bắc Hán quốc Lưu Nghiệp là em trai của Hậu Hán Cao Tổ Lưu Tri Viễn. Thời Hậu Hán Ẩn Đế, Lưu Nghiệp làm quan tới chức Hà Đông Tiết độ sứ, Thái Nguyên Doãn. Ẩn Đế còn trẻ, đại thần lộng quyền, Lưu Nghiệp thấy chính quyền của Hậu Hán không được vững chắc, liền chuẩn bị về quân sự và tài chính.
Năm thứ hai tháng giêng, Quách Uy xưng Đế, đổi quốc hiệu thành Chu, lịch sử gọi là Hậu Chu. Lưu Nghiệp tiến đến chiếm Hà Đông mười hai châu để lên ngôi, hắn đổi danh, vẫn dùng quốc hiệu Hậu Hán niên hiệu Càn Hữu, lịch sử gọi là Bắc Hán hay Đông Hán. Bắc Hán là đất nước duy nhất ở phương Bắc trong 10 nước.
Lưu Nghiệp bệnh nặng, bởi vì hắn chần chừ không hạ lệnh truyền ngôi cho Thái tử Lưu Tranh nên đã dẫn đến cuộc đấu tranh gay gắt giữa mười một đứa con trai của hắn, vì tranh đoạt ngôi vị mà đã gây nên cảnh tượng tăm tối rối loạn. Mặc dù Lưu Tranh thân là Thái tử nhưng với bản tính ích kỷ hắn lại âm thầm cấu kết với một số quan lại trong triều đình nhằm kết bè kết cánh, Lưu Nghiệp có phần chán ghét đối với những gì mà hắn làm. Mà đối thủ có thực lực mạnh nhất cùng với Lưu Tranh tranh giành ngôi vị là Tứ Hoàng tử của Lưu Nghiệp tên là Lưu Hoán.
Lưu Hoán giao du rất rộng, vung tiền hào sảng, trong triều đình quan lại danh tiếng của y vô cùng tốt, là một người ngay thẳng phóng khoáng làm việc cũng cẩn thận, nghiêm túc, Lưu Nghiệp luôn do dự giữa việc truyền ngôi cho Lưu Tranh hay Lưu Hoán.
Đại Tướng Quân Vương Lưu Lăng là con trai thứ chín của Lưu Nghiệp, là huynh đệ ruột thịt cùng một mẹ sinh ra với Tứ Hoàng Tử Lưu Hoán.
Cửa thành Thái Nguyên – Đô thành Bắc Hán – đóng chặt, trên tường thành là cả một đội Cấm quân Hoàng thành trên đầu đội nón trụ thân mặc giáp sắt. Một lão thái giám tóc đã bạc trắng đứng ở trên cổng thành nhìn về phía đại quân tập hợp đông nghìn nghịt đang tiến đến, khóe miệng nở một nụ cười lạnh. Tên của lão thái giám này là Quách Dĩ, chính là thái giám thân tín nhất của đương kim Hoàng đế Lưu Nghiệp từ lâu đã bị Thái tử Lưu Tranh mua chuộc.
– Trên cửa thành là kẻ nào, Đại Tướng Quân Vương muốn vào thành, còn không mau mở cửa ra!
Một gã thân binh bên cạnh Lưu Lăng ngửa đầu lên quát.
Lão thái giám Quách Dĩ liếc mắt nhìn xuống dưới, tay bắt hoa lan chỉ nói với một gã Thiên tướng bên cạnh:
– Phía dưới là kẻ nào mà ríu ra ríu rít phiền chết đi được, nói cho bọn chúng biết Hoàng Đế băng hà nên có lệnh đóng chặt tất cả các cửa, không ai được phép vào.
Thiên tướng tên gọi là Trần Hiểu nhướng mày rõ ràng là biểu thị thái độ cực kì chán ghét đối với cái vẻ mặt ẻo lả của Quách Dĩ, nhưng ngại thay trong tay lão thái giám này lại có binh phù Cấm quân của thành Thái Nguyên, hắn cũng đành phải nghe lệnh.
– Bên dưới là Đại Tướng Quân Vương sao? Ty chức là người trực bảo vệ cổng thành ngày hôm nay, Thiên tướng Trần Hiểu. Phụng mệnh của Thái tử điện hạ cho đóng kín cửa thành, xin Đại Tướng Quân Vương thứ lỗi.
Trần Hiểu ở trên lầu cửa thành chắp tay hô.
Chiếc lông mày lưỡi mác của Lưu Lăng nhướng lên, ngẩng đầu lên nhìn rồi hừ một tiếng, nói với thân vệ bên cạnh:
– Nói cho hắn biết, ta muốn vào trong thành gặp mặt Phụ hoàng, nếu hắn không mở cửa thành đừng trách ta trở tay vô tình.
Thân vệ nói theo hô một lần, Thiên tướng Trần Hiểu đang định nói thì bị Quách Dĩ đẩy ra.
– Tránh ra, tên nô tài vô dụng.
Quách Dĩ giọng đầy âm khí nói.
Gã đi đến lỗ châu mai trên cổng thành, đỡ tường thành nhìn xuống dưới rồi lập tức vỗ vỗ ngực. Vừa khẽ vuốt lồng ngực của mình vừa nhăn nhó nói:
– Ai cha, cao như vậy nếu mà ngã xuống thì không cần cái mạng già này của ta nữa rồi. Là ai ăn no rỗi việc không có chuyện gì làm mà lại xây thành cao như vậy, hao tốn tài của, nên chém!
Trần Hiểu hừ lạnh một tiếng nhỏ giọng nói:
– Hay cho cái tên thái giám bất tài vô dụng.
Quách Dĩ hắng giọng một cái hô to xuống phía dưới thành:
– Ta còn tưởng là ai, hóa ra là Đại Tướng Quân Vương bách chiến bách thắng của chúng ta. Ngài có việc gì? Muốn vào thành ư? Vậy cũng thật không đúng lúc, lão nô phụng mệnh của Thái tử điện hạ cầm Cấm quân binh phù đóng chặt tám cửa của Đô thành, cho dù có là ngài chỉ e cũng không thể vào được, xin ngài đừng trách lão nô, mong Đại Tướng Quân Vương lượng thứ.
Lưu Lăng lạnh lùng nói:
– Một tên thái giám mà dám lớn giọng trước mặt ta, nếu không mở cửa đừng trách binh sĩ của ta đao kiếm vô tình!
Quách Dĩ đưa tay che miệng cười nói:
– Ai ô ai ô, Đại Tướng Quân Vương à, xin ngài đừng có tức giận như vậy chứ. Chuyện của Hoàng tử các ngài không hề có liên quan gì đến lão nô, lão nô chỉ là phụng mệnh Hoàng thượng làm việc mà thôi. Đại Tướng Quân Vương xin ngài hãy chịu uất ức một chút, tạm thời đóng quân ở bên ngoài thành ba mươi dặm, lão nô nghĩ ngày mai sẽ có ý chỉ cho ngài. Đến lúc Đại Tướng Quân Vương tấn vị Thân Vương cũng đừng quên chiếu cố tới lão nô này, lão nô xin được nói lời cảm tạ trước.
Lưu Lăng nhướng mày hỏi:
– Lệnh của Hoàng thượng? Ngươi phụng mệnh Phụ hoàng của ta sao?
Quách Dĩ vừa nghe đến câu hỏi này của Lưu Lăng, ngay lập tức giơ tay dùng tay áo bào chạm chạm vào mắt.
– Lão nô đúng là phụng mệnh của Thái tử điện hạ, Tiên đế... Tiên đế đã băng hà rồi. Ôi chao, Tiên đế gia của ta, sao ngài nỡ bỏ đi để lại lão nô một mình thế này, cho lão nô đi cùng ngài đi.
Nhìn cái vẻ mặt khiến người khác buồn nôn của Quách Dĩ ở trên tường thành, trong lòng Lưu Lăng vô cùng giận dữ, nhưng thật ra trong lòng hắn lại không mấy tiếc thương với tin băng hà của Phụ hoàng. Điều đó không có nghĩa là Lưu Lăng bất hiếu, mà là bởi vì hắn vốn dĩ không nên làm người của thời đại này. Không hiểu chuyển kiếp thế nào lại sinh ra với thân phận Cửu Hoàng tử Lưu Lăng của Lưu Nghiệp, mà lúc đó Lưu Lăng đã lâm bệnh nguy kịch chỉ còn lại hơi thở cuối cùng. Cũng trong một năm đó, ma bệnh Lưu Lăng, chẳng những khỏi bệnh, hơn nữa còn như được Chiến thần nhập thể, từ lần đầu tiên bình định loạn lạc ở vùng Bắc Hán Nam Bộ, về sau chiến đấu trăm trận lớn nhỏ đều bách chiến bách thắng!
Hơn nữa Lưu Nghiệp đối với đứa con ma ốm này phần nhiều không có thiện cảm, tuy rằng sau này Lưu Lăng bất ngờ trở thành danh tướng đệ nhất Bắc Hán triều, nói đến công lao thì nên thăng tiến Lưu Lăng làm Thân Vương, có điều lại rơi vào cái danh Đại Tướng Quân Vương hư vô này, có thể thấy được Lưu Nghiệp đúng là có niềm oán hận sâu đậm đối với đứa con trai này.
– Người đâu!
Lưu Lăng quát.
Một đám thân vệ cùng nói:
– Có!
Lưu Lăng chỉ về cửa thành nói:
– Đánh ba hồi trống, sau ba hồi trống nếu như vẫn không chịu mở cửa thành ra, lập tức phá cửa thành cho ta, người nào ngăn cản giết không tha!
– Rõ!
Đám thân vệ hô một tiếng rồi ngay lập tức nổi trống lên, năm chiếc trống trận to đùng được đám binh lính đẩy lên trước trận hình. Năm tên tinh binh cởi trần trong tay cầm chiếc dùi trống, vừa có mệnh lệnh là một loạt tiếng trống trận vang lên.
Đùng!
Tiếng trống rung trời!
Trên cửa thành sắc mặt của Thiên tướng Trần Hiểu lập tức biến đổi, hắn đã từng theo Đại Tướng Quân Vương chinh chiến nên đương nhiên hiểu được con người của Lưu Lăng, nếu như cho hắn dùng bốn chữ để miêu tả Lưu Lăng thì đó chính là "sát phạt quyết đoán"! Tiếng trống vừa vang lên, nhịp tim của Trần Hiểu cũng đập theo tiếng trống dồn dập. Theo như những gì hắn hiểu rõ về Lưu Lăng, có lẽ hắn đã đoán được rằng nếu sau ba hồi trống mà vẫn không mở cửa thành chỉ e ba vạn đại quân bên ngoài sẽ công phá thành!
– Quách công công, giờ phải làm thế nào? Theo ta hiểu về Đại Tướng Vương Quân, chỉ e rằng sau ba hồi trống sẽ cho hạ lệnh công thành!
Quách Dĩ hừ lạnh một tiếng:
– Tên nô tài sợ chết! Thành tường Thái Nguyên cao hơn tám trượng lại có hơn vạn Cấm quân hùng mạnh bảo vệ thành, Lưu Lăng chỉ là một thằng nhóc miệng còn hôi sữa sao có thể vượt qua được cả bầu trời? Theo ta thấy ngươi đã bị cái danh bách chiến bách thắng của tên Lưu Lăng kia dọa cho đến chết rồi, ta còn có Cấm quân binh phù của Thái tử điện hạ, ở đây làm theo những lời nói của ta, không mở cửa!
Gã híp mắt nhìn Trần Hiểu nói:
– Trần Tướng quân, ngài lại muốn nhiễu loạn lòng quân đừng trách ta quân pháp vô tình!
Trần Hiểu giận đến mức sắc mặt trắng bệnh, hung hăng đạp chân đi qua bên kia.
Đùng!
Hồi trống thứ hai vang lên, ba vạn quân bên ngoài thành hô to một tiếng.
– Mở cửa thành!
Tiếng hô đến đinh tai nhức óc làm cho Quách Dĩ hoảng sợ một phen, từ trước đến nay gã chưa từng nhìn thấy khí thế như vậy của ngàn vạn quân. Gã suýt chút nữa bị tiếng trống của ba vạn hùng binh làm cho sợ chết khiếp, sắc mặt Quách Dĩ trắng bệnh phải vịn vào tường thành suýt chút nữa đã ngã quỵ.
Trần Hiểu hung hăng vỗ tường thành thở dài nói:
– Ôi! Sau khi phá thành chỉ e là máu sẽ chảy thành sông mất.
Đùng!
Hồi trống thứ ba vang lên!
Lưu Lăng ngồi ngay ngắn trên bờm ngựa đỏ, đưa tay ra chỉ Quách Dĩ nói:
– Hoa Tam Lang đâu?
Một tên tiểu tướng có diện mạo tuấn tú dáng người thon dài, mặc một chiếc ngân giáp sáng giục ngựa đến bên Lưu Lăng, chắp tay nói:
– Có mạt tướng!
Lưu Lăng lạnh lùng nói:
– Bắn chết kẻ hoạn tặc này cho ta!
– Tuân lệnh!
Ánh mắt của Hoa Tam Lang vô cùng lạnh lùng, y từ trên yên ngựa lấy cây thiết thai cung trăm thạch được đặc chế. Một tay lấy thiết cung tay kia từ sau lưng rút ra một mũi điêu linh tiễn, to và nặng hơn nhiều so với mũi tên bình thường trong chiếc túi đựng tên, y căng cung cài mũi tên lên, quát nhẹ một tiếng:
– Mở!
Chỉ nhìn thấy cây thiết thai cung dù có là một gã đại hán căn bản cũng không thể mảy may rung chuyển nhưng lại bị Hoa Tam Lang có diện mạo thanh tú kéo ra như trăng tròn.
– Trúng!
Hoa Tam Lang thở nhẹ một tiếng, nhẹ nhàng buông dây cung, cây điêu linh tiễn to nặng dài hơn một mét bắn ra như sao băng! Chỉ trong chớp mắt, cây tên dài bằng tốc độ mắt thường không theo kịp bay thẳng tắp ra ngoài, phụp một tiếng vào giữa cổ họng của tên hoạn tặc Quách Dĩ!
Mũi tên bắn vào cổ họng!
Từ nơi Hoa Tam Lang dừng ngựa ở dưới thành cách tên thái giám Quách Dĩ ở trên cửa thành chừng 150 mét, mũi tên này không ngờ bắn ra lại ngược với uy lực của trời!
– Người đầu tiên phá thành vào, phong Thiên hộ hầu, thưởng hai ngàn lượng vàng!
Lưu Lăng dùng roi ngựa chỉ vào cửa thành lạnh lùng nói:
– Các ngươi đều đã từng là quân lính cũ của ta, cũng hiểu rõ Lưu Lăng ta dụng binh như thế nào. Trong vòng ba nén nhang phải phá cửa thành này, nếu như kẻ nào lùi lại giết chết không tha. .
Lưu Lăng vung cánh tay hô:
– Các binh sĩ thuộc hạ, ta sẽ xem các ngươi sẽ thể hiện sự uy phong của đại doanh Kinh Kỳ của ta như thế nào, thể hiện sự uy phong của sư tử Đại Hán!
Hắn vừa dứt lời, một đám thân vệ đồng thanh hét:
– Đại Tướng Quân Vương uy vũ!
Ba vạn quân tốt hô rung động trời:
– Đại Tướng Quân Vương uy vũ!
Khí thế như cầu vồng!
Ba mươi chiếc xe nỏ khổng lồ chậm chậm được đẩy ra, trên chiếc xe tên nỏ dài đến ba mét đã được dựng lên, chỉ cần có lệnh là có thể phóng ra, chiếc xe nỏ này uy lực vô cùng lớn có thể coi là một loại vũ khí cuối cùng trong việc đánh thành chiếm đất. Khi mà thuốc nổ vẫn còn chưa được sử dụng phổ biến, mũi tên nỏ lớn như vậy uy lực vô cùng đủ để xuyên thủng cửa thành đã có thể gọi là nghịch thiên!
– Các cung tiễn thủ chuẩn bị!
Theo mệnh lệnh của Thống lĩnh cung tiễn thủ Hoa Tam Lang, ba nghìn cung tiễn thủ đều chỉnh tề bước lên phía trước tiến vào trận đánh. Ba mươi chiếc xe nỏ, ba nghìn cung tiễn thủ giống như những đám mây đen vừa dày vừa nặng đem tới áp lực cực lớn cho đám Cấm quân bảo vệ trên tường thành. Cấm quân tuy được gọi là đội quân tinh nhuệ nhất Bắc Hán, nhưng từ khi mới lập quốc cho đến giờ chưa từng tham gia một trận đại chiến nào. Đội Cấm quân không hề có kinh nghiệm chiến đấu ở vào trận đấu này, ai ai cũng sắc mặt trắng bệnh không hề có cái bộ dạng ngông nghênh ngày xưa.
– Phân thành ba hàng luân phiên nhau, hàng thứ nhất, bắn!
Hoa Tam Lang hạ lệnh!
Tiếng động răng rắc vang lên, những thiết bị trên xe nỏ đều bị kéo lên, mũi tên nỏ to lớn giống như một con rồng đang giận dữ bỗng ngẩng đầu lên, nhằm trực tiếp vào đội quân bảo vệ trên tường thành.
Ầm!
Tiếng dây cung và nỏ xa phát ra thứ âm thanh đinh tai nhức óc, một trận mưa tên giống như mây đen hướng về phía đầu thành!