Lý Mật thừa dịp Trung Nguyên không có binh lực, binh tiến Huỳnh Dương, một phát cướp lấy kho Lạc Khẩu, Hoa Hạ chấn động, Địch Nhượng trong lòng hối hận, suất lĩnh đại quân tiến đến hội họp với Lý Mật, cũng đề cử Lý Mật đứng đầu Ngõa Cương, danh xưng Ngụy công, cam tâm tình nguyện làm thứ chủ của Ngõa Cương.
Hơn bốn trăm ngàn đại quân Ngõa Cương chỉ cách kinh thành Lạc Dương hơn trăm dặm, tình thế Lạc Dương nguy hiểm, một trăm ngàn đại quân Ngõa Cương lập tức vây quanh huyện Quản Thành Huỳnh quận trị Dương, Huỳnh Dương Thái Thú là Tuân Vương Dương Khánh khẩn cấp đi cầu cứu Hoàng đế Dương Quảng.
Dương Quảng bị quân Ngõa Cương quận dọa cho kinh sợ, hạ chỉ lệnh Hà Nam Đạo lùng bắt đại sứ Trương Tu Đà dẫn năm mươi ngàn đại quân thảo phạt Ngõa Cương, cũng phong ông ta làm Huỳnh Dương Thông thủ.
Lúc này Trương Tu Đà cũng liên chiến liên thắng quét ngang mười hai quận Hà Nam Đạo, đánh đâu thắng đó, không gì cản nổi, ông và quân Ngõa Cương từng vì tranh đoạt Bộc Dương mà giao chiến mấy lần, đều giết quân Ngõa Cương tới đại bại, ngay cả Địch Nhượng cũng suýt nữa chết trong tay Trương Tu Đà.
Trương Tu Đà khẳng khái nhận mệnh dẫn ba mươi ngàn đại quân một đường giết tới Huỳnh Dương, quân giặc quá ư sợ hãi.
Chính ngọ hôm đó, Trương Tu Đà tới gần huyện Quản Thành, lệnh đại quân ở huyện Quản Thành lập đại doanh ở ngoài hai mươi dặm phía đông.
Đầu năm Đại Nghiệp thứ hai mươi, đại doanh quân Tùy hoàn toàn yên tĩnh, hôm nay binh sĩ được nghỉ, nhưng không cho ai ra khỏi doanh, tất cả đều nghỉ ngơi ngay tại lều, có người ngủ, có người tụ lại một đám nói chuyện, kể chuyện phong cảnh gia hương.
Trương Tu Đà cưỡi ngựa tuần tra trong doanh, ông để cho binh sĩ nghỉ ngơi vì đã nhận được tình báo, quân Ngõa Cương đã rút lui không bao vây huyện Quản Thành nữa, quay về huyện Huỳnh Dương, trong vòng hai mươi dặm xung quanh không có quân địch.
Trương Tu Đà năm nay đã năm mươi hai tuổi, hy vọng lớn nhất cuộc đời là có thể có một đứa con trai, nhưng trời cao không chiếu cố, dưới gối không có con trai, chỉ có hai đứa con gái, nhưng cả hai cũng không may mà chết thảm, khiến cho ông nhìn như già hơn cả mười tuổi.
Nỗi đau mất con ông chôn chặt sâu trong đáy lòng, không biểu lộ ra trước mặt bất cứ kẻ nào. Trong mắt các tướng sĩ, ông là Thống soái nghiêm từ tương tể, ông tình nguyện chính mình không có tiền nuôi gia đình, cũng không thể ủy khuất phụ thân của binh lính; trong mắt đám quan lại trong triều ông là một kẻ không biết điều, không hiểu biến báo, lập được công lao lớn như vậy mà cũng không biết khoe ra, chỉ biết xin công lao cho tướng sĩ. Trong mắt Hoàng đế Dương Quảng ông là một mãnh tướng bách chiến bách thắng, là một đại thần trung thành và tận tâm, là trụ cột chống đỡ Đại Tùy; trong mắt dân chúng ông là một thanh quan ghét ác như thù, yêu dân như con.
Nhưng cho dù người khác thấy thế nào cũng không ai nghĩ qua gia đình ông, nghĩ tới nỗi đau mất con gái của ông, như thể ông không có gia đình không có vợ con vậy. Chỉ một vài binh lính tinh ý mới nhận ra mái tóc ông đã bạc hơn nửa, mới nhận ra được bóng dáng cô tịch của ông đã hơi còng xuống, bọn họ mới chậm rãi cảm nhận được trong lòng vị chủ soái này giấu một nỗi bi thương thật lớn.
Lúc này, không biết từ khi nào Tần Quỳnh đã tới bên cạnh Trương Tu Đà:
- Đại soái, đi nghỉ một chút đi! Ty chức tới thay đại soái!
Trương Tu Đà cười cười hỏi:
- Sĩ Tín đâu, sao không thấy?
- Tâm tình y không tốt, ty chức đã bảo y ngồi một mình một lúc.
Trương Tu Đà gật gật đầu:
- Chúng ta đi!
Hai người cưỡi ngựa chậm rãi đi.
- Thúc Bảo, năm nay ngươi đã bốn mươi rồi nhỉ?
- Đã sang bốn mươi.
Trương Tu Đà thở dài:
- Thời gian thật nhanh! Năm đó khi ngươi tới tìm nơi nương tựa còn không đến ba mươi tuổi, hiện giờ ngươi đã là lão tướng, ta cũng già rồi.
Tần Quỳnh trầm ngâm một chút:
- Đại soái, nghe nói triều đình chuẩn bị phân chúng ta ra, có chuyện này sao?
- Không phải là phân ra, mà là triều đình chuẩn bị điều một nửa quân đội chúng ta đi Hà Bắc đối phó với Đậu Kiến Đức, khả năng sau khi chiến dịch này kết thúc ta sẽ đi Hà Bắc, sau đó lưu lại một bộ phận tướng lãnh và binh lính ở đây tổ kiến ba đội tân quân, phân biệt trấn thủ mười hai quận Hà Nam.
- Trong ba đội tân quân này có ty chức sao?
Tần Quỳnh thấp giọng hỏi.
Trong ánh mắt Trương Tu Đà có chút khổ sở, vốn là ông ta đề cử Tần Quỳnh làm chủ tướng quân Đông lộ Hà Nam Đạo, đóng quân ở quận Tề. Nhưng trong danh sách Binh bộ gửi lại không có tên Tần Quỳnh, Trương Tu Đà cũng biết vấn đề ở đâu, hẳn là vì thân phận của Tần Quỳnh là quan viên Bắc Tề, cũng vì nguyên nhân này, bản thân mình cũng nhiều lần xin công cho Tần Quỳnh đều nhiều lần bị bác bỏ, năm Đại Nghiệp thứ sáu y là Đô Úy quận Tề, năm Đại Nghiệp thứ mười hai, y vẫn là một Ưng Dương lang tướng, vẫn không được nâng lên chút nào.
Tần Quỳnh cười lạnh:
- Ty chức biết, đám Binh bộ kia lại nhìn quê quán của ty chức!
Trương Tu Đà thở dài:
- Cũng không nhất định, hiện giờ cũng chưa chính thức bổ nhiệm, chỉ nghe một chút tin đồn, chờ đánh xong trận này, ta tự mình tới Giang Đô gặp Thánh Thượng, nếu vẫn không chịu thăng quan cho ngươi, ta cũng từ quan không làm.
Tần Quỳnh thầm lặng lẽ cảm động, lúc này, y lại nghĩ đến một chuyện, thật cẩn thận nói:
- Nghe nói lần này Dương Huyền Cảm tạo phản, Nguyên Khánh cũng không dẫn quân tới Quan Trung tập hợp.
Trương Tu Đà hiểu ý hắn, cười cười:
- Tâm tư đứa nhỏ đó không phải ngươi có thể hiểu được, ta rất hiểu nó, nó không thèm nhìn phụ thân không có nghĩa là trung với triều Tùy. Nếu nói Dương gia chỉ có một người có thể khiến nó nguyện trung thành thì phải là ông nội nó. Tuy nhiên ta đã nghĩ thông suốt, có thể có một đồ đệ như vậy cũng là phúc khí của Trương Tu Đà ta.
Trương Tu Đà nhớ lại khi Nguyên Khánh chỉ còn là một đứa nhóc bị mình ném vào hố băng, ký ức về thằng nhóc quật cường đó đến nay vẫn còn như mới, không biết con của Dương Nguyên Khánh sẽ thế nào, hắn có thể cũng như mình ném con vào hố băng không? Nghĩ đến đây khóe miệng Trương Tu Đà nhếch lên mỉm cười.
Sáng sớm hôm sau, Trương Tu Đà dẫn đại quân tiếp tục xuất phát về hướng Tây. Giữa trưa ngày kế, ba vạn quân Tùy chỉ còn cách Huỳnh Dương ba mươi dặm, quân Ngõa Cương đã bày ra một trăm mười lăm ngàn trọng binh ở huyện Huỳnh Dương chuẩn bị nghênh chiến với Trương Tu Đà.
Trong lều lớn quân Ngõa Cương, Địch Nhượng gấp đến mức giống như kiến bò trên chảo nóng, Lý Mật nói lão sẽ tới, nhưng Trương Tu Đà đã tới sát mông rồi mà bóng dáng Lý Mật cũng không có.
Địch Nhượng ba lần bại dưới tay Trương Tu Đà, y có một sự sợ hãi từ trong xương đối với ông, năm mươi ngàn tinh binh của Trương Tu Đà nổi tiếng thiên hạ, cho tới giờ vẫn là lấy ít địch nhiều, đánh đâu thắng đó, không gì cản nổi. Hơn một trăm ngàn đại quân của Lư Minh Nguyệt bại trong tay hai mươi ngàn người Trương Tu Đà, một trăm ngàn đại quân Lã Minh Tinh, một trăm ngàn đại quân Tả Hiếu Hữu, hơn mười vạn đại quân Hách Hiếu Đức, tất cả đều bị Trương Tu Đà hoặc mười ngàn hoặc hai mươi ngàn quân đánh bại, chính mình ba lần thua cũng là bị binh lực chỉ bằng một phần ba đánh tan.
Nghĩ đến ba mươi ngàn tinh binh của Trương Tu Đà, Địch Nhượng sợ rần rần, nếu Lý Mật không đến, y sẽ chuẩn bị rút quân về huyện Củng.
Đúng lúc này, một gã lính lên báo:
- Sứ giả Ngụy công tới.
Địch Nhượng cảm thấy thất vọng, sao lại là sứ giả mà không phải bản thân Lý Mật? Lão nhìn xuống cả giận:
- Để cho sứ giả vào!
Một lát sau có hai người tiến vào, đi đầu là Vương Bá Đương tâm phúc được Lý Mật yêu thích, đi sau là một người đội nón tre vành rộng che mặt đến.
- Người này là ai?
Địch Nhượng chỉ người đi sau, kỳ quái hỏi.
Người đi sau hạ cái nón xuống, chính là Lý Mật, dọa cho Địch Nhượng một cú sốc, lão vừa mừng vừa sợ:
- Vì sao Ngụy công lại như vậy?
- Xuỵt!
Lý Mật thở dài, thấp giọng nói:
- Chớ để người ta biết ta đến đây, người nhà tốt nhất cũng không được nói nữa.
Địch Nhượng gật gật đầu, bảo thân binh:
- Bất cứ kẻ nào cũng không cho vào!
Giờ mới hỏi Lý Mật:
- Ngụy công đến là vì Trương Tu Đà?
Lý Mật gật gật đầu:
- Ngàn vạn lần cũng không thể để Trương Tu Đà biết ta tới rồi, ta đã phái người giả làm ta, đang trên đường tới huyện Củng, phải tối mai mới có thể tới nơi, nên trong hôm nay chúng ta nhất định phải phá địch.
Địch Nhượng mừng rỡ:
- Ngụy công có cách phá địch sao?
Lý Mật lạnh lùng cười:
- Người này bách chiến bách thắng, đã cực kỳ tự phụ, lão có năm mươi ngàn đại quân, lại chỉ mang ba mươi ngàn người đến đối phó với bốn trăm ngàn đại quân chúng ta, lão tự phụ thấy rõ, cho dù không cần kỳ binh, ta dùng bốn trăm ngàn đại quân vây khốn lão cũng được, nhưng lúc này ta muốn dùng kỳ binh đối phó với lão. Ta hỏi không dưới trăm tướng sĩ từng đánh trận với lão, ta đã biết điểm trí mạng.
Địch Nhượng vội vàng hỏi:
- Kế của Ngụy công từ đâu mà có?
Lý Mật cười đắc ý:
- Đại ca không nên hỏi, đệ đã an bài tốt, chỉ cần để ý dẫn đại quân đánh với lão ta, đánh thắng thì tốt, bại thì nên để ta xuất trướng.
Ở phía Đông Nam huyện Huỳnh Dương có một tòa chùa chiền nổi danh, tên là Đại Hải tự, chùa đã sớm bị hủy diệt trong binh tai, chỉ còn lại đống đổ nát thê lương, tứ phía là cây cối rậm rạp. Ruộng vườn từng phì nhiêu giờ đã thành chiến trường.
Lúc này ngay tại vùng thôn dã phía nam Đại Hải tự, kim cổ đại tác, tiếng hô giết chấn động. Tinh kỳ như mây, sát khí ngút trời, ba mươi ngàn đại quân Trương Tu Đà xếp thành ba phương trận tấn công vào trung quân quân Ngõa Cương, lúc này quân Ngõa Cương cũng không có đội hình gì, mười mấy đại tướng đều dẫn theo đại quân, dựa vào ưu thế binh lực gấp năm lần quân Tùy mà phát động tấn công mãnh liệt tới quân Tùy.
Mà mặc kệ quân Ngõa Cương tấn công thế nào, quân Tùy vẫn duy trì ba phương trận, vững vàng không chút dao động giết thẳng vào trung quân, cũng giống như ba con sư tử xông vào giữa bầy sói, mục tiêu của họ chính là nhắm vào Lang Vương.
Trương Tu Đà này từ trong hàng trăm chiến dịch mà tổng kết ra kinh nghiệm, loạn phỉ gần như không có huấn luyện gì, trận pháp lại không có, quan trọng hơn là, một đội loạn phỉ bình thường đều là từ vô số tiểu nhân loạn phỉ hợp lại mà thành, điều nàu cũng làm cho nội bộ loạn phỉ đỉnh núi mọsan sát, đánh trận cũng tự ai tạo trận người ấy, không có chỉ huy thống nhất.
Ông chỉ cần tập trung binh lực đánh tan trung quân loạn phỉ, như vậy đại quân loạn phỉ sẽ tan tác toàn bộ, đánh cả trăm trận, cho tới giờ đều là như thế.
Lý Mật có lẽ không phải như vậy, nhưng Lý Mật không ở Huỳnh Dương, Trương Tu Đà nhận được tình báo Lý Mật dẫn ba mươi ngàn quân vẫn đang trên đường tới huyện Huỳnh Dương, đội quân này hẳn là do Địch Nhượng chỉ huy.
Trương Tu Đà đã đánh hơn ba trận với Địch Nhượng, quân đội của lão không khác gì loạn phỉ, trung quân Địch Nhượng cũng không quá năm mươi ngàn người.
Ánh mắt Trương Tu Đà lạnh lùng nhìn chằm chằm vào đại kỳ quân đội Địch Nhượng phía xa xa, trận tuyến đầu của đối phương đã bắt đầu dao động, thời cơ xuất kích toàn diện đã đến, Trương Tu Đà dứt khoát hạ lệnh:
- Đánh trống lớn! Ba phương trận đều đánh trung quân!
"Tùng! Tùng! Tùng!" Năm mươi cái trống lớn đều đồng thời vang lên, ba hồng kỳ trên đài chỉ huy bay phấp phới, tiếng trống và cờ hiệu, điều này đối với quân Tùy có nghĩa ba quân hợp nhất toàn diện xuất kích tấn công trung quân quân địch.
Ba đội quân Tùy bắt đầu phát sinh biến hóa, dần dần, ba đội quân hợp lại làm một, hai đội năm mươi ngàn kỵ binh đánh giết từ trong ra theo hai phía trái phải, lao thẳng tới hai cánh trung quân của địch.
Trên chiến trường quân Ngõa Cương tuy thanh thế lớn nhưng phần lớn binh lính đều không có cơ hội công kích quân Tùy, thực tế là năm mươi ngàn trung quân quân của Địch Nhượng đang đau khổ chống đỡ ba mươi ngàn đại quân Tùy tấn công liên tục, dần dần xuất hiện dấu hiệu sắp sụp đổ.
Trên chiến trường phía Bắc, trong một mảnh rừng rậm gần Đại Hải tự, Lý Mật suất lĩnh năm ngàn kỵ binh mai phục ở đây, chờ đợi thói quen đủ để một kích trí mạng của Trương Tu Đà xuất hiện.
Lý Mật lạnh lùng chăm chú theo dõi biến hóa trên chiến trường, lão đã nhìn ra Địch Nhượng không ổn, khai chiến còn không đến hai canh giờ, đại quân của Địch Nhượng đã dần chống cự không nổi, không có kết cấu và trận pháp tác chiến, vĩnh viễn chỉ là đám ô hợp, quân Ngõa Cương hỗn loạn khiến Lý Mật đã đoán vậy.
Lúc này Lý Mật đột nhiên hiểu được một đạo lý, đám loạn phỉ sở dĩ nhiều lần bị quân Tùy đánh bại, ngay từ đầu không thành lập nên cấp bậc chế độ quan giai như triều Tùy, đều tự xông lên mà thành trận, quyền lực không tập trung. Địch Nhượng cũng vậy, lão rất dung túng thủ hạ, khiến cho tới bây giờ lão không trói buộc được mọi người, không ai nghe lão chỉ huy. Lý Mật lão tuyệt đối không thể tái phạm sai lầm như vậy, quân Ngõa Cương nhất định phải nghe theo một mình Lý Mật lão.
- Ngụy công, quân Ngõa Cương đã bị đánh bại!
Có thân binh thấp giọng kinh hô.
Lý Mật cũng thấy, soái kỳ quân Ngõa Cương đã ngã, bắt đầu tan tác quy mô lớn, lão quay đầu thấp giọng ra lệnh:
- Chờ lệnh của ta xuất kích! ...
Trên chiến trường, trung quân của Địch Nhượng sụp đổ, đại quân thất bại thảm hại, Trương Tu Đà huy đao hô to:
- Một đường đuổi giết, chém đầu Địch Nhượng thưởng năm ngàn lượng, quan thăng ba cấp!
Quân Tùy một đường đuổi giết hơn mười dặm, thi hài Ngõa Cương rơi lại khắp nơi, máu chảy thành sông. Nhưng vào lúc này, Lý Mật mới phát hiện ra, một thói quen có thể tính là thiếu sót của Trương Tu Đà đã xuất hiện, hơn năm trăm người trung quân của Trương Tu Đà không theo quân đuổi giết mà ở lại vây quanh chỉ huy chờ chiến báo của đại quân, Trương Tu Đà ở ngay trong đội ngũ, tứ phía chỉ có năm trăm thân binh, mà ba mươi ngàn đại quân đã đuổi giết ra xa hơn mười dặm rồi.
Thấy thời cơ đã tới, Lý Mật quát một tiếng chói tai:
- Giết!
Năm ngàn quân Ngõa Cương được Lý Mật suất lĩnh từ trong rừng giết ra, Trương Tu Đà liếc mắt một cái thấy đột nhiên thấy có phục binh, chấn động, lập tức quát:
- Ba quân tập kết!
Năm trăm thân binh lập tức kết thành một phương trận, nhưng năm ngàn kỵ binh Ngõa Cương hung mãnh dị thường, chạy ra từ hai bên, cắt đứt đường lui của Trương Tu Đà, đội ngũ khép lại vây lấy ông.
Trương Tu Đà hét lớn một tiếng, dẫn quân phá vây, ông huy đao bổ chém, một đại tướng Ngõa Cương bị chém bay đầu, giật lại một đao, chém đứt đôi hai gã kỵ binh, Trương Tu Đà dũng mãnh hơn người, bổ phải chém trái, chỉ nhằm vào đầu người, máu thịt bay tứ tung, nhưng vừa mở ra được một đường máu đại quân địch đã bịt chặt lại, vừa quay đầu lại, năm trăm thân binh của ông và đại tướng Giả Vụ Bản đều không thể vọt tới.
Năm trăm thân binh này đã đi theo ông nhiều năm, đều xem ông là cha, ông chỉ nghe thấy tiếng kêu thảm của họ không ngừng vang lên, ông điên cuồng hét lên
- Mau tránh ra cho ta!
Bổ hơn mười người, vòng vây lại bịt chặt, năm trăm thân binh của ông đã bị quân Ngõa Cương tách ra vây lại, Trương Tu Đà xông vào tìm được hơn trăm người, lại giết ra cứu được hơn trăm người này. Lúc này, ông thấy Giả Vụ Bản dẫn hơn mười người bị hơn ngàn kỵ binh vây lấy, nhìn từng người một bị giết.
Hai mắt Trương Tu Đà đều đỏ lên, quát lên như sấm, lần thứ hai xông vào đại trận quân địch, tiếp tục cứu Giả Vụ Bản và hơn mười thân binh còn lại ra.
Lý Mật thấy Trương Tu Đà dũng mãnh phi thường, không khỏi giận dữ, nháy mắt với Vương Bá Đương, y giương cung cài tên, nhắm ngay chiến mã của ông, dây cung bật ra, một Long Nha tiễn bắn ra như chớp, một tiễn bắn trúng mắt chiến mã của Trương Tu Đà.
Chiến mã hí lên một tiếng dài, chồm hai chân trước lên ném Trương Tu Đà xuống, Lý Mật mừng rỡ, lập tức hạ lệnh:
- Không được giết, bao vây lão lại!
Mấy ngàn chiến mã nhanh chóng chạy ra, một lát sau, Trương Tu Đà bị vây bên trong, mấy ngàn binh lính đều chỉa binh khí vào ông, Trương Tu Đà rút bảo đao hiên ngang đứng chờ, cả người đẫm máu, lạnh lùng nhìn vào mấy ngàn kỵ binh quanh mình.
Lý Mật chỉ kiếm vào ông, cười đắc ý:
- Trương Tu Đà, đến nước này ngươi còn không chịu đầu hàng sao?
Trương Tu Đà ngửa đầu cười to:
- Làm tướng có thể chết trận trên sa trường, còn gì vui hơn!
Bịch một cái, ông quỳ xuống nhìn về phương Nam, dập đầu ba cái, bi thanh hô lớn:
- Bệ hạ, thần Trương Tu Đà không thể cống hiến cho Bệ hạ, nguyện kiếp sau lại làm Tùy thần bảo vệ giang sơn Đại Tùy!
Trương Tu Đà quay đao, đâm thẳng vào tim mình...
Hàng ngàn kỵ binh Ngõa Cương lặng lẽ nhìn thi thể Trương Tu Đà, một trận gió thổi qua cuốn theo xích kỳ tả tới của Đại Tùy trùm lên trên người Trương Tu Đà.
Trương Tu Đà chết trận, bộ hạ của ông ép tới phía Nam quận Tiếu, tướng sĩ một đường gào khóc, mười hai quận đạo Hà Nam ảm đạm, quân Ngõa Cương sĩ khí đại chấn, một đường vồ đến, không chỉ chiếm toàn bộ Huỳnh Dương, quận Hứa Xương, quận Lương, quận Đông, quận Tế Âm, quận Tế Bắc, Hoài Dương, Đông Bình toàn bộ cũng bị chúng chiếm lĩnh, quan viên quận huyện nhìn thấy từ xa đã đầu hàng, cả khu đất gần trung tâm của Trung Nguyên đều là lãnh thổ của quân Ngõa Cương.
Binh lực quân Ngõa Cương đã khôi phục lại đến bốn trăm ngàn, nhưng kết cấu lại không cân bằng, binh lực phía Lý Mật gia tăng đến hai mươi lăm vạn, mà bên phía Địch Nhượng từ thảm bại Đại Hải tự đã giảm mất một trăm năm mươi ngàn, đồng thời, người của Lý Mật đã công chiếm được nhà kho Lạc Khẩu và giết được Trương Tu Đà mà danh vọng tăng lên nhiều, mơ hồ đã thành lãnh tụ Trung Nguyên, Địch Nhượng lại vì đại bại ở Đại Hải Tự mà sinh oán với lão, mâu thuẫn của hai người cuối cùng vì quyền lãnh đạo thay đổi mà bắt đầu trở nên gay gắt.
Khắp vùng Giang Đô cái tin Trương Tu Đà chết trận cùng với quân Ngõa Cương nhanh chóng được khuếch trương và trở nên bi thảm, sĩ khí ba quân lao đao, trong Hoàng cung Dương Quảng một đêm không ngủ, mặc dù đã truy phong Trương Tu Đà làm Huỳnh Quốc Công, thụy "Trung", nhưng vẫn không thể chấn hưng sĩ khí, chống lại được từng cuộc tiến công của quân Ngõa Cương vào Trung Nguyên.
Trong Ngự thư phòng, Dương Quảng lặng lẽ nghe Bùi Uẩn báo cáo.
- Lý Mật tự xưng làm Ngụy công, lấy nha môn Ngõa Cương của Hành quân Nguyên soái phủ, đặt ra tam ti lục vệ, trong phủ Nguyên soái có Trưởng Sử, Ti Mã cùng với các Tào tham quân, trói buộc quân kỷ, cắt giảm thuế phú, quan viên quận huyện đều đảm nhiệm chức vụ cũ...
Lúc này Dương Quảng chỉ bất ngờ chứ không tức giận, cúi đầu thở dài:
- Bụi cỏ tạo phản không đáng sợ. Đáng sợ chính là quý tộc tạo phản, bọn chúng biết cách thành lập chính quyền, thống trị thiên hạ. Không có Lý Mật, Ngõa Cương chỉ là một đám ô hợp không đoàn kết, thiên hạ đại loạn, trẫm phải làm thế nào cho phải?
Dương Quảng lo lắng nhìn ra ngoài cửa sổ, ánh mắt tràn đầy sự bất đắc dĩ và thương cảm chưa bao giờ từng có, Ngu Thế Cơ khom lưng:
- Trương Tu Đà mặc dù đã chết trận, nhưng khắp thiên hạ người có thể cầm binh không phải chỉ có một mình Trương Tu Đà. Thần có thể đề cử vài đại tướng, thỉnh bệ hạ chọn.