- Tướng quân!
Một gã Giáo Úy vội vã chạy tới, sợ hãi hô to:
- Quân Tùy châm lửa vào chiến hào, đại hỏa đã nuốt sống cầu treo!
Khuất Đột Thông giật nảy người, trong lòng hoảng loạn, tay nắm thiết tiễn như vô lực, để mũi tên rơi xuống đất.
Nếu như cầu treo bị thiêu hủy, lửa ở chiến hào không tắt, tất cả bọn họ chắc chắn sẽ chôn thân trong biển lửa. Giờ khắc này, Khuất Đột Thông đã chẳng còn quan tâm đến cái gọi là chiến thuật và kết cấu, có thể chạy ra được bao nhiêu người thì tốt bấy nhiêu.
Lúc này, lão thét lên:
- Kỵ binh xung phong, không cho phép quay đầu lại!
Đao thuẫn binh vội vã lùi ra sau, ba ngàn kỵ binh tiến lên phía trước. Theo tiếng nổ lớn, ba ngàn kỵ binh hò hét, thúc giục chiến mã phóng ra khỏi thành.
Ngoài thành tên bay như mưa, kỵ binh bị bắn đến người lật ngựa ngã, tử thương thảm trọng. Nhưng vì mạng sống, bọn họ vẫn liều lĩnh xung phong về phía trước, muốn mở ra một con đường sống.
Lúc này, Từ Thế Tích biết là đã đến lúc thay đổi chiến thuật, y dứt khoát hạ lệnh:
- Cung nỏ binh lùi về phía sau, kỵ binh giết lên, trường mâu binh rút về!
Kèn lệnh vang lên, tiếng trống giục giã. Mấy ngàn cung nỏ binh vội vã lùi về phía sau. Ba ngàn kỵ binh lập tức xông lên, hai ngàn trường mâu binh điều khiển máy bắn đá yểm trợ hai bên, một bộ phận cung nỗ binh chuyển thành trường mâu binh, chuẩn bị chặn giết quân Đường đột phá vòng vây.
Mặc dù quân Đường trả giá hơn một ngàn kỵ binh đã chạy ra khỏi thành Nhữ Nam, nhưng lúc này, bọn họ đã mất đi cái tâm chiến đấu. Ý muốn tranh đấu hầu như không còn, trong đầu mọi người chỉ có hai chứ: "Giữ mạng!"
Bọn họ đã không có đội ngũ, không có kết cấu, giống như những con ruồi, chi chít nhưng không có người chỉ huy, liều mạng đột phá vòng vây, bỏ chạy tứ tán. Loại dục vọng cầu sinh này sản sinh ra một loại sức mạnh liều mạng, khiến cho quân Tùy cũng không ngăn cản hết.
Từ Thế Tích thấy quân Đường đã hoàn toàn tan vỡ, dùng phương pháp chặn đường tiêu diệt ngược lại lại khiến cho quân mình bị thương một cách không cần thiết. Vừa mới ra lệnh đuổi giết, y lập tức sửa lại mệnh lệnh:
- Rút lui, khai thông đường!
Tiếng kèn tiếp tục vang lên, đây là mệnh lệnh nhường đường. Các tướng sĩ quân Tùy đều vội vã ra lệnh cho binh sĩ mau tránh sang một bên.
Giống như nước sông đang tăng vọt bỗng tìm được chỗ thoát. Quân Đường từ các lỗ hổng thoát ra bỏ chạy toán loạn, ngày một mạnh mẽ. Quân Tùy ở phía sau truy sát, giết cho thi thể nằm đầy mặt đất, người đầu hàng vô số.
Nhưng Từ Thế Tích lại nhìn chằm chằm vào Khuất Đột Thông, y thấy Khuất Đột Thông được hơn trăm binh lính hộ vệ từ mặt bên chạy ra, y vội hét lớn:
- Doanh kỵ binh số một theo ta!
Từ Thế Tích suất lĩnh năm trăm kỵ binh đuổi giết Khuất Đột Thông. Cưỡi ngựa chạy như bay, dần dần đuổi sát Khuất Đột Thông. Kỵ binh quân Tùy ở phía sau không ngừng bắn cung, có thể thấy tùy tùng của Khuất Đột Thông ngày càng ít. Khuất Đột Thông dẫn theo tùy tùng liều mạng chạy trốn đến một khu ruộng lúa mạch hoang vu.
Bỗng nhiên, chiến mã của Khuất Đột Thông bước đúng vào một cái hang chuột đồng, chân ngựa bị bẻ gãy, chiến mã hí lên một tiếng kinh hoàng rồi ngã ra đất, quăng Khuất Đột Thông văng xa đến mấy trượng.
Mà chiến mã thân binh của lão lại không dừng lại, vẫn lao lên hơn chục bước mới dừng lại. Khi bọn chúng quay đầu ngựa lại chạy về phía Khuất Đột thông thì kỵ binh quân Tùy cũng đã chạy tới, trong nháy mắt đã tách rời Khuất Đột Thông khỏi tùy tùng. Sau khi bao vây mười mấy tên thân binh còn sót lại, một trận trường mâu đâm đến, toàn bộ thân binh của Khuất Đột Thông đã bỏ mạng.
Dù sao thì Khuất Đột Thông cũng đã sáu mươi tư tuổi, cú ngã vừa rồi đã khiến cho xương cốt của lão gãy đoạn. Lúc lão giãy giụa muốn đứng dậy, một cây trường sóc đã chỉ thẳng vào yết hầu của lão. Từ Thế Tích lạnh lùng nói:
- Còn dám cử động ta lập tức đâm thủng cổ ngươi!
Khuất Đột Thông thở dài một tiếng, ngửa mặt nằm xuống, trong lòng tràn ngập bi thương. Thiên đạo tuần hoàn, báo ứng thật khó chịu, cuối cùng lão cũng chịu thảm bại trong tay quân Tùy.
Lúc này, lão bỗng nhiên nhớ tới hoàn cảnh lúc trước sau khi đầu hàng Đường Vương, đi chiêu hàng Nghiêu Quân Tố.
Lúc đó lão vừa thương cảm vừa xấu hổ, đứng dưới thành, mặt đầy nước mắt hô to:
- Quân Tố, quân Tùy đã bại, Đường Vương hưng khởi. Đại thế của triều Tùy đã mất, ngươi hãy đầu hàng đi!
Nghiêu Quân Tố đứng trên đầu thành, lạnh lùng nói:
- Chiến mã ngươi đang cưỡi là của Thánh Thượng ban tặng, hiện tại ngươi còn mặt mũi nào cưỡi con ngựa này?
Khuất Đột Thông bi thảm hô to:
- Quân Tố, là ta sức lực đã tận mới đầu hàng!
- Hừ! Sức lực đã tận cũng phải chết vì tổ quốc cũng không làm ch săn cho người Đường. Một ngày nào đó, ngươi sẽ có báo ứng. Trời xanh tự có công đạo!
Khuất Đột Thông thống khổ, nhắm hai mắt lại. Nước mắt khuất nhục trong mắt cuồn cuộn chảy ra. Lão hô to:
- Từ Thế Tích, ngươi giết ta đi!
Nhưng ngoài dự đoán của mọi người, Từ Thế Tích thu lại mã sóc, thản nhiên nói:
- Ta rất muốn giết ngươi, nhưng ta không có cái quyền này. Ngươi đi mà cầu xin Sở Vương Điện hạ tha thứ!
Ngay sau khi an bài ổn thỏa, Từ Thế Tích lập tức phái năm trăm kỵ binh áp giải Khuất Đột Thông, sử dụng tốc độ nhanh nhất đưa đến đại doanh quân Tùy ở huyện Nghi Xương.
Lúc này, chiến dịch Trung Nguyên đã tiến hành được hơn một tháng. Chiến dịch giống như một cái trục tâm, trục tâm vừa chuyển động lập tức ảnh hưởng đến các mặt khác.
Ngoại giao, tình báo, nội chính của song phương tranh đoạt quyền lực đều có thu hoạch. Nhưng theo chiến dịch Trung Nguyên, quân cờ ngoại thương giao tranh kịch liệt, không ngừng thâm nhập, ván cờ của hai bên đã đến thời khắc kịch liệt nhất.
Lúc này, Dương Nguyên Khánh nhận được tin tình báo từ Thái Nguyên chuyển tới, mâu thuẫn nội bộ Thanh Châu cũng trở nên gay gắt, đã trở thành nội chiến. Quân đội của Đậu Kiến Đức và quân đội của Tống Kim Cương chiến đấu kịch liệt tại quận Bắc Hải.
Rõ ràng đây là một tin tình báo thắng lợi. Cứ nhìn Dương Nguyên Khánh tỉ mỉ đi từng nước cờ, đều là những bước then chốt trong chiến dịch Trung Nguyên. Thanh Châu nội chiến đồng nghĩa với việc Đậu Kiến Đức không còn khả năng xâm lấn Hà Bắc, quân Tần Quỳnh ở nhà đã không còn lo lắng.
Lúc này, Dương Nguyên Khánh truyền đạt mệnh lệnh, lệnh cho hai mươi ngàn quân của Tần Quỳnh theo quận Đông nhanh chóng tiến về quận Toánh Xuyên, trở thành cánh phải của Lý Tĩnh.
Hơn nữa, giả như có thêm hai mươi ngàn quân của Từ Thế Tích thì quân đội của Lý Tĩnh đã tăng lên tám mươi ngàn, đã nhiều hơn quân Đường của Lý Hiểu Cung ở Tương Dương, cán cân tiểu ly đã nghiêng về phía quân Tùy.
Đã tiến vào tháng bảy, khí trời đã không còn quá nóng bức, buổi sớm và chiều muộn cũng trở nên mát mẻ, người dân ra khỏi cửa cũng nhiều hơn.
Tuy rằng chiến tranh vẫn chưa kết thúc, nhưng người Trung Nguyên đã sớm trải qua nhiều cuộc chiến tranh rèn luyện, đã không còn sợ hãi chiến tranh, bọn họ vẫn sinh hoạt như trước, sống cuộc sống của mình.
Huyện Nghi Dương là một huyện phía tây quận Hà Nam, cách huyện Trường Uyên chỉ khoảng năm mươi dặm. Muốn đến phía tây quận Hoằng Nông bắt buộc phải đi qua con đường này.
Vị trí thuận lợi này khiến cho thương nghiệp của vùng này tương đối phồn thịnh. Trên quan đạo, người buôn bán qua lại nối liền không dứt.
Lúc này, một đội kỵ binh khoảng năm trăm người của quân Tùy từ phía nam nhanh như chớp chạy tới. Binh sĩ ở phía trước hô to:
- Người phía trước mau tránh ra!
Nhưng người đang đi trên quan đạo đều sợ hãi, vội vàng tránh sang một bên nhường đường. Kỵ binh quân Tùy hăng hái chạy qua, nhằm thẳng hướng đại doanh quân Tùy ở huyện Nghi Xương lao đi, chỉ còn cách đại doanh vài dặm, đã có thể nhìn thấy một cách loáng thoáng.
Đại doanh quân Tùy ở phía bắc huyện Nghi Dương, một dãy hàng rào kiểu quân đội bao trọn một vùng diện tích khoảng tám trăm mẫu. Nơi này chính là chủ doanh của quân Tùy trong chiến dịch Trung Nguyên, cũng là trung tâm chỉ huy của toàn bộ chiến dịch.
Ở trung tâm đại doanh là một mảnh đất rộng khoảng hai trăm mẫu dùng làm giáo trường. Lúc này, trên giáo trường đang có tiếng hô như sấm, mười mấy tên tướng sĩ đang thi đấu so tài cưỡi ngựa bắn cung, mấy chục ngàn binh lính chia ra ngồi xung quanh giáo trường, hò reo cổ vũ tướng lĩnh doanh mình.
Đây là truyền thống của quân Tùy, từ lúc còn ở Phong Châu đã có loại so tài cưỡi ngựa bắn cung này rồi. Toàn thể tướng sĩ, không kể chức vụ cao thấp, từ Tổng quản Dương Nguyên Khánh cho tới binh sĩ phổ thông đều có thể báo danh tham gia thi tài. Trải qua tầng tầng lớp lớp thi đấu chọn lọc, cuối cùng chỉ còn lại hai mươi người tiếp tục thi đấu với nhau.
Đây cũng chính là một hình thức tiêu khiển của binh sĩ. Hầu như mọi người đều tham gia tỷ thí, vì thế tất cả mọi người đều rất quan tâm xem chiến thắng cuối cùng rơi vào nhà nào.
Tuy nhiên hiện tại cũng không phải là cuộc so tài chính thức của quân Tùy, không có đội quân ở phía Đông và đội quân ở Thái Nguyên tham dự, đây chỉ là một cuộc thi tài tiêu khiển của đội quân phía Tây. Mặc dù chỉ như vậy nhưng cũng đủ khơi dậy hứng thú của năm mươi ngàn tướng sĩ quân Tùy, đều chạy tới giáo trường hò hét trợ uy.
Chiến mã bên trong khu vực quy định chạy gấp, người cưỡi ngựa giương cung nạp tên, dây cung được kéo căng như trăng tròn đầy tháng, tên bắn như sao rơi, nhằm thẳng mục tiêu ngoài trăm bước bay tới.
Cuộc thi tài thi hành một loại chế độ chọn lọc khốc liệt. Đầu tiên là bắn người cỏ ở ngoài tám mươi bước, nếu không bắn trúng yết hầu của người cỏ thì lập tức bị loại. Sau đó là bắn cây gỗ ở ngoài trăm bước, bắn không trúng cũng bị loại.
Sau hai đợt sàng lọc liền chỉ còn lại có có bảy tám người. Trong số bảy tám người này, binh sĩ đặc biệt chú ý đến hai người. Một người được quân Tùy xưng là Đệ nhị tiễn, chính là Á tướng Tạ Ánh Đăng. Người còn lại là một tiễn thủ mới, tuổi còn khá trẻ, chính là Giáo úy Tiêu Diên Niên.
Trong quân Tùy, ngoại trừ thiên hạ đệ nhất tiễn Dương Nguyên Khánh ra, những cao thủ có tài bắn cung cũng không ít, như Tô Định Phương, Bùi Hành Nghiễm, Tạ Ánh Đăng, Vương Quân Khuếch, Tần Quỳnh ...
Trong số đó, dĩ nhiên là Tạ Ánh Đăng có tài bắn cung cao minh nhất, có thể bắn trúng mục tiêu ngoài trăm bước, được quân Tùy xưng là Đệ nhị tiễn, trình độ cũng gần với Dương Nguyên Khánh.
Lần này, những đại tướng có tài bắn cung cao cường đều không có mặt ở đại doanh, đại bộ phận binh lính đều cho rằng Tạ Ánh Đăng sẽ dễ dàng giành chiến thắng, không ngờ nửa đường lại xuất hiện một Giáo úy trẻ tuổi tên Tiêu Diên Niên, tài bắn cung không thua gì Tạ Ánh Đăng lập tức khơi dậy hứng thú cuồng nhiệt trong binh lính.
Chuyện cổ tích về cô bé lọ lem (*TQ mà sao có cái sự tích này???) thường làm cho người khác cảm thấy hứng thú. Ngoại trừ một số ít người ở ngoài, không ai biết Tiêu Diên Niên chính là nhi tử của Vũ Văn Thành Đô.
Dương Nguyên Khánh cùng hơn chục văn chức quan quân ngồi trên khán đài, hắn phát hiện tài bắn cung của Tiêu Diên Niên qua mỗi lần thi đấu càng thêm tiến bộ liền vừa cười vừa nói với Dương Nguy ở bên cạnh:
- Bàn Tam Lang, chúng ta đánh đố chứ hả?
Dương Nguy gãi đầu, có chút khó xử nói:
- Không phải Tổng quản hạ lệnh cấm đánh cuộc sao?
- Ha ha! Ta nói là đánh đố, không có quan hệ đến đánh cuộc. Ngươi cho rằng Tiêu Diên Niên và Tạ Ánh Đăng, ai sẽ thắng?
Dương Nguy suy nghĩ một chút rồi nói:
- Tuy rằng thoạt nhìn thì tiễn pháp của Tiêu Diên Niên cao minh không kém gì Tạ Ánh Đăng, nhưng kinh nghiệm và khí thế của y còn kém một chút, thuộc hạ cho rằng Tạ Ánh Đăng thắng.
- Vậy được rồi! Ta đánh cuộc Tiêu Diên Niên thắng. Nếu như ta thắng, bình kim ti pháp lang mà cha vợ ngươi cho ngươi thuộc về ta.
Cha vợ của Dương Nguy là Khang Ba Tư, hai năm trước trở về Tát Ma Nhĩ Hãn. Dương Nguy cũng rất ham đánh cuộc, từ nhỏ đã ham đánh cược rồi, y nhất thời hưng phấp đứng lên:
- Tốt! Nếu thuộc hạ thắng, trong hai bình rượu nho Đại Lợi cực phẩm, ngài phải cho ta một lọ.
Dương Nguyên Khánh mỉm cười:
- Một lời đã định!
Trong lúc hai người bọn họ đánh đố, ngoài giáo trường vang lên tiếng hoan hô như sấm dậy. So tài cưỡi ngựa bắn cung đã đến giai đoạn làm nhiều việc cùng lúc. Ngoài trăm bước, ở hai bên trái phải đặt hai cọc gỗ to bằng cổ tay, trong thời gian bảy tiếng trống vang lên, phải cùng lúc bắn ra hai mũi tên về phía mục tiêu.
Tạ Ánh Đăng trèo lên ngựa trước, vừa tiến vào khu xạ kích, tiếng trống nhanh chóng vang lên."Đông! Đông! Đông...", từng tiếng trống vang lên một cách gấp gáp. Tạ Ánh Đăng sớm đã rút ra hai mũi tên, đặt lên trên ngón tay. Một mũi tên bay về bên trái, lực bắn rất mạnh.
Nhưng y không đợi xem kết quả, xoay người vừa giương cung vừa lắp tên, vẫn giữ nguyên tốc độ, một mũi tên lại được bắn ra. Lúc tiếng trống cuối cùng vang lên cũng đã bắn xong hai mũi tên, chạy ra khỏi khu tác xạ.
Âm thanh ủng hộ từ hai bên vang lên như sấm, hai mũi tên đều bắn trúng mục tiêu. Ánh mắt Tạ Ánh Đăng nhìn về phía sau, y muốn xem Tiêu Diên Niên biểu diễn thế nào.
Tiêu Diên Niên cắn chặt môi, trong lòng có chút khẩn trương, y thầm hít xâu một hơi, phóng ngựa ra, trong nháy mắt đã lướt qua vạch xuất phát, tiến vào khu xạ kích. Tiếng trống cũng gấp gáp vang lên, y cũng rút ra hai mũi tên, dùng răng cắn chặt một mũi tên. Lúc tiếng trống thứ ba vang lên thì y cũng giương cung bắn ra mũi tên thứ nhất.
Sau đó lập tức chuyển thân sang bên trái, giương cung cài tên. Lúc tiếng trống thứ sau vang lên thì cũng là lúc tên được bắn ra, động tác thuần thục thoải mái, như nước chảy mây trôi, cũng bắn trúng mục tiêu là hai cây gỗ ở hai bên.
Nhất thời, binh sĩ ở hai bên nổi lên tiếng hoan hô như sấm, ngay cả Tạ Ánh Đăng cũng phải thốt lên cảm thán:
- Đẹp!
Dương Nguy thở dài một tiếng:
- Hiện tại đúng là hậu sinh khả úy, so với chúng ta năm đó thì mạnh hơn nhiều. Cái tên Tiêu Diên Niên này rất có phong thái của phụ thân y là Vũ Văn Thành Đô. Còn có nhi tử Tần Quỳnh là Hoài Ngọc cũng là một tướng môn hổ tử (con hổ nhà tướng). Chỉ mới mười lăm tuổi mà võ nghệ không thua gì cha nó, ngay cả ta cũng bại trên tay nó.
Trưởng tử của Tần Quỳnh là Tần Hoài Ngọc được chân truyền của phụ thân, võ nghệ cao cường, năm nay mới mười lăm tuổi. Mới năm ngoái đã một lòng theo cha nhập ngũ tòng quân.
Nhưng từ lâu Dương Nguyên Khánh đã sửa chưa lại luật pháp, qua mười sau tuổi mới được phép tòng quân, hiện tại y đang ở Sùng Văn Quán Thái Nguyên học tập binh pháp, cũng là một tiểu tướng thiếu niên văn võ song toàn.
Dương Nguyên Khánh cười đắc ý:
- Còn lần đấu cuối cùng, bắn chuông vàng, nếu Tiêu Diên Niên và Tạ Ánh Đăng vẫn bình thủ, mà Tiêu Diên Niên mới có mười bảy tuổi, trong khi Tạ Ánh Đăng đã hai mươi tám tuổi, dưới tình huống này, hẳn là thắng lợi thuộc về Tiêu Diên Niên. Lúc đó, bình kim ti pháp lang thuộc về ta.
Lúc này Dương Nguy mới có phản ứng, y oán hận nói:
- Dù sao người chế định quy tắc là ngươi. Cứ coi như Tạ Ánh Đăng thắng, đến lúc đó ngươi lại bổ sung một quy tắc, Đô Úy trở lên không tính, vậy thì người thắng là Tiêu Diên Niên. Đánh đổ với ngươi, ta thật đúng là chiếm đại tiện nghi.
Dương Nguyên Khánh cười ha hả, vỗ vỗ bờ vai y:
- Ta còn chưa đến mức vô lý như vậy.
Lúc này, một binh sĩ chạy vội tới, ghé tai Dương Nguyên Khánh nói nhỏ vài câu. Dương Nguyên Khánh ngẩn ra, ánh mắt lộ rõ vẻ vui mừng:
- Người đang ở nơi nào?
- Hiện đang ở phó trướng trung quân.
Dương Nguyên Khánh không kìm được hưng phấn trong lòng, không còn lòng dạ nào tiếp tục theo dõi cuộc so tài cưỡi ngựa bắn cung, lập tức đứng dậy đi về hướng phó trướng trung quân.
Tạ Tư Lễ ở bên cạnh chẳng hiểu chuyện gì, y thấy Dương Nguyên Khánh biểu hiện khác thường, vội vã đứng dậy đi theo.
- Điện hạ! Đã xảy ra chuyện gì?
- Từ Thế Tích lập cho ta một đại công, đánh bại toàn bộ hai mươi ngàn quân của Khuất Đột Thông ở quận Tương Thành, bắt sống Khuất Đột Thông.
Tạ Tư Lễ giật mình, cũng trở nên hưng phấn dị thường:
- Nói như vậy, thời cơ quyết chiến ở đông tuyến đã chín muồi.
Dương Nguyên Khánh gật đầu:
- Hiện tại chỉ chờ quân đội của Tần Quỳnh đến thôi.
Hai ngươi vừa nói vừa bước nhanh về phía lều lớn...
Trong lều phó trung quân, hơn mười thân vệ dùng ánh mắt lạnh lùng nghiêm nghị chăm chú nhìn Khuất Đột Thông đang ngồi trên giường. Dây thừng trên chân Khuất Đột Thông đã được cởi bỏ.
Nhưng hai tay vẫn bị trói ra sau lưng, mắt bị bịt vải đen. Lão đang từ từ hoạt động đôi chân đã tê rân vì bị trói.
Lúc này trong lòng lão cũng đã trở nên bình tĩnh. Lão biết thân mình đã ở dưới đất, không sợ cũng không lo lắng. Lão nhìn sinh tử bằng ánh mắt lãnh đạm. Lão đã ngoài sáu mươi tuổi, có chết cũng xem như thọ rồi.
Lúc này, phía ngoài lều vang lên tiếng bước chân vội vã. Mành trướng được vén lên, hơn mười thị vệ vây quanh Dương Nguyên Khánh từ bên ngoài đi vào.
Dương Nguyên Khánh liếc mắt nhìn thấy Khuất Đột Thông đang ngồi trên giường. Hắn và Khuất Đột Thông vô cùng quen thuộc, năm đó bình định loạn Hán Vương, tổ phụ Dương Tố chính là chủ soái, Khuất Đột Thông chính là đại tướng dưới trướng.
Sau này hắn tự lập ở Phong Châu, Dương Quảng liền phái Khuất Đột Thông suất lĩnh năm mươi ngàn quân tiến về quận Quan Bắc chế trụ hắn.
Dương Nguyên Khánh yên lặng nhìn Khuất Đột Thông một lát, sau đó lệnh cho thuộc hạ:
- Cởi dây trói và vải bịt mắt.
Vài tên thân vệ tiến lên cởi bỏ dây trói và miếng vải bịt mắt cho Khuất Đột Thông. Hai mắt Khuất Đột Thông hơi nheo lại, nhẹ nhàng hoạt động cổ tay, không nhìn Dương Nguyên Khánh cũng không nói một lời.
- Khuất Đột Công, chúng ta đã lâu không gặp!
Dương Nguyên Khánh mỉm cười.
Khuất Đột Thông chậm rãi mở mắt, hai mắt dần thích ứng với ánh sáng. Ánh mắt lợi hại nhìn Dương Nguyên Khánh, cười lạnh nói:
- Hóa ra là Dương Tổng quản, đúng là đã lâu chúng ta không gặp nhau.
Dương Nguyên Khánh cũng không lảng tránh ánh mắt của lão, thản nhiên nói:
- Hiện tại Khuất Đột Công là tù nhân dưới trướng ta. Hiện tại ngươi dự định thế nào?
- Muốn giết cứ giết. Muốn lăng trì cứ lăng trì, ta quyết không nhăn mặt.
Dương Nguyên Khánh trầm tư mộ chút rồi nói:
- Được rồi! Ta cho ngươi hai con đường, ngươi tự chọn lấy.
Hai nước Tùy Đường vốn chung một mạch, đối với đại thần bị bắt của hai bên cũng tương đối rộng lượng, chỉ cần không phải đã từng phục vụ cho các thế lực nổi loạn, hoặc là loại nghịch tặc như Vũ Văn Hóa Cập, Vương Thế Sung, thanh danh vấy bẩn, bình thường cũng sẽ trọng dụng.
Đối với danh tướng có kinh nghiệm phong phú như Khuất Đột Thông, Dương Nguyên Khánh đầu tiên là tận lực mượn sức, cho dù là không thể lưu lại trong quân thì cũng có thể đặt ở quốc tử học giảng dạy học sinh, bồi dưỡng trù bị nhân tài.
Dương Nguyên Khánh nhìn chăm chú vào lão, chậm rãi nói:
- Con đường thứ nhất, ngươi vốn là tướng Tùy, do hoàn cảnh bắt buộc mà phải hàng Đường. Ta không so đo ngươi đi con đường quanh co, nếu như ngươi khẳng định về Tùy, ta sẽ tiếp tục trọng dụng ngươi.
Khuất Đột Thông thở dài một tiếng:
- Ta bỏ Tùy hàng Đường đã là bất trung. Nếu lại bỏ Đường hàng ngươi, đó là bất nghĩa. Làm người bất trung bất nghĩa, Khuất Đột Thông ta còn mặt mũi nào đi gặp tổ tiên.